Sửa quy định về thuế để hỗ trợ doanh nghiệp khoáng sản

19/11/2024
Ủy ban Tài chính – Ngân sách thống nhất với đề xuất bỏ nội dung hạch toán khoản hỗ trợ trong dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản trên cả nước thời gian qua luôn ở mức tăng trưởng khá, có sự đóng góp lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, so với tiềm năng, xu hướng phát triển còn nhiều khó khăn, vướng mắc.

Liên quan đến chi phí đầu tư, nâng cấp, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh lưu ý, liên quan đến quy định về hạch toán khoản chi hỗ trợ vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp, theo nguyên tắc phải sửa đổi các quy định về thuế, nhất là trong bối cảnh Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) đang trình Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Hồng Thanh lưu ý về vấn đề hoạch toán chi phí cho doanh nghiệp trong chi phí đầu tư

“Về kinh phí hỗ trợ thì phải đưa vào hạch toán chi phí hoạt động của doanh nghiệp để trừ đi, tính thuế cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp mới sẵn sàng ủng hộ chính quyền địa phương trong việc đầu tư, nâng cấp, duy tu, bảo dưỡng các công trình hạ tầng kỹ thuật cũng như bảo vệ môi trường”, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế nhấn mạnh.

Đồng tình với quan điểm trên, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết, vừa qua, Chính phủ đã trình dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Tuy nhiên, qua xem xét chưa thấy dự án Luật này quy định về kinh phí hỗ trợ thì phải đưa vào hạch toán chi phí hoạt động của doanh nghiệp để trừ đi.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách thống nhất với phương án 2 như Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề xuất, đó là, bỏ nội dung hạch toán khoản hỗ trợ trong dự thảo Luật, việc này thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.

Giải trình thêm về vấn đề này Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đề nghị, khi thiết kế mỏ, địa phương và các chủ thể doanh nghiệp cần phải đưa vào các phương án về hạ tầng kỹ thuật (ngoài phương án khai thác), nhất là các vấn đề môi trường di dân, tái định cư… “Có lẽ phải tính toán đưa ngay từ đầu để doanh nghiệp đưa vào chi phí sản xuất, hoạch toán và ưu tiên”.

Dưới góc độ của đơn vị khai thác và sản xuất khoáng sản, ông Phạm Nguyên Hải – Giám đốc pháp chế, Công ty TNHH Khai thác Chế biến Khoáng sản Núi Pháo – chia sẻ, ở khía cạnh công cụ kinh tế, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là khoản tiền tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải trả cho Nhà nước để được thực hiện đặc quyền khai thác, thu hồi khoáng sản.

Song theo quy định trong dự thảo, nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thì một doanh nghiệp hoạt động khoáng sản như Công ty Núi Pháo đang phải đóng rất nhiều các loại thuế và phí khác nhau.

Trong đó, nhóm các loại thuế bao gồm: thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng; nhóm các loại phí và lệ phí bao gồm phí khai thác và sử dụng tài liệu địa chất, khoáng sản, phí điều tra, thăm dò khoáng sản (hoàn trả cho Nhà nước), phí bảo vệ môi trường và phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Và nhóm các loại tiền nộp ngân sách khác như: tiền ký quỹ phục hồi môi trường, tiền thuê đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.

Đáng chú ý, về bản chất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và thuế tài nguyên có tính chất giống nhau vì cùng đánh vào một đối tượng là khoáng sản nguyên khai chưa qua chế biến và dựa trên những căn cứ, phương pháp tính toán tương tự nhau. Trong đó, giá tính thuế tài nguyên đồng thời được dùng làm căn cứ để xác định giá tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

“Các quy định về xác định và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản hiện nay đã tạo ra hiện tượng thuế chồng thuế, khiến rất nhiều doanh nghiệp hoạt động khoáng sản rơi vào tình cảnh khó khăn, kể cả các doanh nghiệp ở quy mô lớn”, ông Hải nêu thực tế. Do đó, đại diện Núi Pháo đề xuất nên tính và thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế hàng năm của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản.

Đồng tình, TS Lê Ái Thụ, Chủ tịch Hội Địa chất Kinh tế Việt Nam góp ý, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định trên cơ sở căn cứ “giá tính thuế tài nguyên khoáng sản” sẽ tạo ra tâm lý cho rằng nhà nước lại đặt ra một loại thuế mới. Vì vậy, nếu có quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thì chỉ chỉ định: “Tiền cấp quyền được tính trên sản lượng thực tế khai thác hàng năm”.

Theo thống kê năm 2022, lĩnh vực khai khoáng đóng góp khoảng 2,8% GDP

Trên cơ sở kết quả thẩm tra của các cơ quan thuộc Quốc hội, ý kiến trao đổi, thảo luận của các đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật cần được tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đặc biệt là các nội dung liên quan đến tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (tránh chồng lấn với thuế tài nguyên và bảo đảm theo tinh thần của Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị); đấu giá quyền khai thác khoáng sản; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thăm dò, khai thác khoáng sản (trong đó có thế chấp quyền khai thác khoáng sản); kiểm soát, giám sát sản lượng khai thác khoáng sản; cơ sở dữ liệu về địa chất, khoáng sản. Ngoài ra, việc xử lý hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động khoáng sản cần phải được xem xét, đánh giá để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Theo ông Mai Thế Toản, Phó Cục trưởng Cục Khoáng sản Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), pháp luật sẽ khó đi vào cuộc sống nếu như năng lực thực thi không đáp ứng. Do vậy, Nhà nước cần có đầu tư thích đáng cho hạ tầng kỹ thuật, nhân lực phục vụ quản lý nhà nước về địa chất và khoáng sản, đặc biệt là hệ thống cơ sở dữ liệu số, trang thiết bị, công nghệ phục công tác kiểm soát hoạt động khoáng sản (công nghệ viễn thám, thiết bị bay không người lái UAV….)…; cần có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước từ khâu lập quy hoạch đến cấp phép, đóng cửa mỏ, bảo đảm giảm thiểu tất cả các tác động tiêu cực, rủi ro, sự cố về môi trường và xã hội có thể xảy ra trong suốt vòng đời của dự án khai thác mỏ và sau khi đóng cửa mỏ.

Cụ thể, cần gắn công tác quy hoạch, quản lý khai thác khoáng sản với đô thị hóa – cấp nước – giao thông – thủy lợi – lâm nghiệp – du lịch và bảo vệ môi trường trong một thể thống nhất; có chế độ khuyến khích các phương án hoạt động khai thác khoáng sản bền vững (hài hòa lợi ích khai thác khoáng sản và bảo vệ tốt môi trường, lợi ích của thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau, lợi ích của các bên liên quan).

“Các doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản cần quan tâm áp dụng các công nghệ, giải pháp thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng, tái sử dụng chất thải như đất đá thải, quặng đuôi và thực hiện tốt các trách nhiệm, nghĩa vụ theo luật định” – vị Phó Cục trưởng Cục Khoáng sản nhấn mạnh.

Đồng thời ông Mai Thế Toản cũng dự báo, Hệ thống pháp luật về địa chất và khoáng sản có tính khoa học, toàn diện, thực tiễn và được tuân thủ nghiêm minh sẽ loại trừ được những bất cập liên quan đến hoạt động địa chất, khoáng sản như hiện nay. Với sự vào cuộc có trách nhiệm của tất cả các bên có liên quan, từng bước chúng ta sẽ đạt được mục tiêu phát triển bền vững của ngành công nghiệp khai khoáng theo đúng yêu cầu của Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Nguồn: Pháp luật phát triển

 

Tin tức cùng chủ đề

Vagme